HỘI CHỨNG ỐNG CỔ TAY

HỘI CHỨNG ỐNG CỔ TAY

Hội chứng ống cổ tay là tình trạng chèn ép thần kinh giữa khi nó đi qua ống cổ tay. Đây là bệnh lý thần kinh thường gặp nhất chiếm khoảng 1- 3% dân số. Hay gặp trong độ tuổi 40- 50 và tỉ lệ phụ nữ  gấp 4 lần nam giới.

1/ Nguyên nhân, cơ chế.

Khi bị các lực nén ép kéo dài, các gân cơ và dây chằng có thể bị sưng phồng làm hẹp đường ống vốn đã nhỏ ở cổ tay (đường hầm cổ tay), khiến cho dây thần kinh giữa trong số các dây thần kinh ngoại biên điều khiển bàn tay bị chèn ép, tạo nên hội chứng đường hầm cổ tay. Lực nén ép có thể do những cử động mang tính lặp đi lặp lại, tư thế sai hoặc khi làm việc, tay liên tục duy trì ở một tư thế cố định nào đó trong một thời gian dài.

Ngoài ra, một số bệnh lý:

 (viêm khớp, tiểu đường, gout, gãy xương lệch trục…)

và những yếu tố như căng thẳng, thay đổi nội tiết ở phụ nữ có thể làm tăng nguy cơ mắc hội chứng này. Khi đó thần kinh giữa ở mặt lòng cẳng bàn tay chui qua đường hầm ở cổ tay, nằm chung với chín gân gập ngón tay. Các gân này nằm trong những bao nhớt, gọi là bao hoạt dịch. Gân bị viêm sưng to lên và lấn lên rễ thần kinh giữa; thần kinh giữa mềm mại bị chèn ép nặng hơn bởi những gân cứng như dây thừng do sưng nề, gây ra bệnh.

Như vậy, nguyên nhân sâu xa của bệnh xuất phát từ cơ chế thần kinh giữa ở mặt lòng cẳng bàn tay đi qua đường hầm ở cổ tay, nằm chung với chín gân gập ngón tay. Các gân này nằm trong những bao nhớt, và khi gân bị viêm sưng to sẽ lấn lên rễ thần kinh giữa. Do thần kinh giữa mềm nên bị chèn bởi những gân cứng như dây thừng do sưng, từ đó sẽ gây nên hội chứng ống cổ tay.

Có nhiều lý do làm cho thần kinh giữa bị chèn ép như:

 Một số nhóm nghề nghiệp và công việc có nguy cơ cao dẫn đến hội chứng ống cổ tay bao gồm là những người làm công việc đòi hỏi phải cầm nắm hay gập lòng cổ tay thường xuyên, những người sử dụng máy tính, những người tiếp xúc với máy móc rung tay. Cụ thể là:

Triệu chứng và cách nhận biết bệnh.

– Một số triệu chứng thường gặp khác như tê rần châm chích ở các ngón tay, đôi khi đau ở các ngón tay, bàn tay, đau ngón cái, nóng rát từ cổ tay đến ngón tay, thay đổi cảm giác nhiệt hoặc xúc giác ở bàn tay, bàn tay trở nên vụng về, sức cầm nắm giảm, rối loạn tiết mồ hôi… Nếu không được điều trị, các triệu chứng sẽ tiến triển thành cơn đau cấp tính hoặc đau kéo dài, đôi khi nghiêm trọng đến mức người bệnh không thể làm được những việc đơn giản trong gia đình vì chức năng bàn tay đã bị tổn thương nghiêm trọng và không thể phục hồi. Khi tiến triển nặng sẽ phải phẫu thuật.

– Các triệu chứng thường nặng hơn khi người bệnh làm các việc liên quan nhiều đến bàn tay như: chạy xe máy, đánh máy vi tính, may, thêu, băm rau… và thường giảm khi người bệnh xoa bóp, nghỉ ngơi, vẫy cổ tay. Lúc đầu tê có cơn và tự hết mà không cần điều trị. Sau đó cơn tê ngày càng kéo dài. Có những bệnh nhân bị tê rần suốt cả ngày. Sau một thời gian tê, người bệnh có thể đột nhiên bớt tê nhưng bắt đầu thấy việc cầm nắm yếu dần hoặc bị run tay, viết khó, dễ làm rớt đồ vật. Những triệu chứng kể trên là điển hình cho tình trạng dây thần kinh giữa bị chèn ép trong ống cổ tay. Thường thì triệu chứng điển hình gặp ở một tay, nhưng cũng có thể gặp ở cả hai tay.

– Những triệu chứng nặng hơn của bệnh: yếu ở tay, cảm giác vụng về hơn, khó khăn mở nút chai, dễ làm rơi đồ vật cầm nắm trên tay…hay giảm cảm giác ở bàn tay, teo cơ mô ngón cái là triệu chứng muộn của bệnh.

*** Khi có những dấu hiệu trên bạn cần đến gặp bác sĩ ngay, để được khám, xét nghiệm, đo điện cơ hay chụp MRI để chẩn đoán chính xác nhất.

Điều trị: Phần lớn các trường hợp hội chứng ống cổ tay có thể khỏi khi người bệnh thay đổi môi trường làm việc, thay đổi cách sống khoa học và hợp lý hơn. Ít khi cần đến sự can thiệp của thầy thuốc chuyên khoa nội thần kinh. Những trường hợp thể nặng phải được điều trị nội khoa tích cực, nếu không chuyển biến thì phải can thiệp bằng phẫu thuật.

– Điều trị phẫu thuật: khi điều trị nội khoa không kết quả hoặc kết quả rất hạn chế nên phẫu thuật để giải phóng dây thần kinh ra khỏi ống cổ tay, bác sĩ rạch một đường nhỏ ở cổ tay để giải phóng dây thần kinh ra khỏi ống cổ tay.

 

Sau mổ băng gạc dầy ở cổ tay để hạn chế vận động cổ tay trong 2 ngày đầu sau mổ. Sau 2 ngày tập vận động cổ tay, ngón tay và khủy tay.

Mang nẹp cổ tay trung tính trong vòng khoảng 3 tuần đầu, nhất là về đêm. Sau khoảng 2 tháng người bệnh có thể vận động lại bình thường không hạn chế.

 Làm sao để phòng ngừa.

Thường xuyên tập thể dục, nhất là với những người mà công việc bắt buộc phải ngồi nhiều, hoặc phải thực hiện những thao tác lặp đi lặp lại ở cổ tay.

Luyện tập tay theo kiểu đơn giản là dùng tay này để mát xa cổ tay kia, nhằm thúc đẩy tuần hoàn máu, giảm sự tắc nghẽn các dịch lỏng ở khu vực này, xoa nhẹ nhàng từ bàn tay và cổ tay, hướng dẫn lên nách và vai, cổ, lưng trên. Nên mát xa nhẹ nhàng bàn tay và cánh tay. Đặt tay lên gờ giường khi ngủ. Có thể dùng đá chườm hay dùng túi chườm lạnh để giảm đau ở cổ tay. Luyện tập nhẹ nhàng đầu ngón tay và cổ tay sẽ giúp lưu thông các dịch trong cơ thể, tăng tuần hoàn máu giúp tay cử động dễ hơn.

Khi làm việc nên ngồi ở tư thế đúng, thỉnh thoảng thay đổi tư thế hoặc đứng lên đi lại. Cần lưu ý đến tư thế khi làm việc.

 

Giữ cho bàn tay trên cùng mặt phẳng với cẳng tay

– Không nắm dụng cụ quá mạnh

– Không gõ bàn phím quá mạnh

– Đổi tay nếu có thể được

– Nghỉ thư giãn mỗi 15-20 phút

– Giữ tay ấm

– Không gối đầu trên tay khi ngủ.

– Khi làm việc cũng cần phải chú trọng tư thế ngồi thật hợp lý.

– Thư giãn, tránh căng thẳng.

 

 

     

Khoa Ngoại Thần Kinh